Kế hoạch cho ngày tàn của Phật giáo

Thứ Sáu 23, Tháng Tư 2010, bởi DT
Sau đây là bài điểm sách "Peoples of the Buddhist World" của Paul Hattaway do Allen Carr viết. Bản dịch của Nguyên Tánh đăng trên website Giao Điểm.
Luân Đôn, Anh Quốc - Một vài hãng dược phẩm ở phương Tây đã tốn nhiều triệu Mỹ kim để bào chế và mang ra thị trường một loại thuốc mới, nhưng rồi bị các cơ quan y tế khám phá loại thuốc này có nhiều phản ứng nguy hiểm và bị cấm bán.
Cần thu hồi lại số tiền đã đầu tư và vì không bán được thuốc ở phương Tây nữa nên một vài hãng thuốc đã đem các thuốc nguy hại này bán ở các nước thuộc Thế giới Thứ Ba, nơi mà quần chúng ít hiểu biết về các vấn đề liên quan đến sức khoẻ và các chính quyền có thể mua chuộc được. Có thể nói rằng (trường hợp của) Thiên Chúa Giáo cũng giống như vậy.
Vì đã mất nhiều tín đồ ở phương Tây, nhiều giáo phái Thiên Chúa Giáo bắt đầu tìm cơ hội ở các nơi khác. Dĩ nhiên thế giới Hồi giáo là bất khả xâm phạm. Ngay chính nhà truyền đạo lạc quan nhất cũng cho rằng cơ hội truyền bá Phúc Âm đến tín đồ Hồi giáo là con số không. Những đối tượng hiển nhiên là Phi châu, Ần Độ và các nước Phật Giáo ở châu Á.
Hiện nay có nhiều tổ chức truyền giáo Phúc âm chuyên cải đạo các Phật tử. Viện Á Châu Thái Bình Dương Phật Học (Asia Pacific Institute of Buddhist Studies) ở Phi luật Tân đang giảng dạy cho các nhà truyền giáo các lớp học thâm sâu về giáo lý Phật Giáo, ngôn ngữ ở các nước Phật Giáo và tổ chức xã hội ở các cộng đồng Phật Giáo - để hiểu biết rõ kẻ thù.
Hội Liên Hữu Trung Á (Central Asia Fellowship) đặc biệt nhắm tới người Tây tạng. Hội Liên Hữu Truyền Giáo Hải Ngoại (Overseas Missionary Fellowship) gồm những chuyên gia về Phật Giáo và sẵn sàng mở các lớp huấn luyện, trình bày cho các tín đồ Thiên Chúa Giáo cách làm việc có hiệu quả trong thế giới Phật Giáo. Trung Tâm Phật Học Bình Minh (Sunrise Centre for Buddhist Studies) và Mạng Lưới Nam Á (South Asia Network) là những cộng đồng trên mạng cung cấp cho các nhà truyền giáo các tin tức đầy đủ chi tiết, chính xác và mới nhất để cải đạo các người theo đạo Phật. Đừng hiểu lầm rằng đây chỉ là những nhóm nhỏ, lẻ tẻ. Các tổ chức này rất lớn, có nhiều tiền, được quản trị tốt, và có nhiều nhân viên tận tụy và hăng say với công việc.
Mới đây, một cuốn sách có tựa đề “Các Dân Tộc trong Thế Giới Phật Giáo” (Peoples of the Buddhist World, Piquant Editions, Carlisle, 2004) được xuất bản bởi Paul Hattaway vốn là một trong những người lãnh đạo cuộc tấn công Phật Giáo mới này. Cuốn sách dày 453 trang, cung cấp đầy đủ cho các nhà truyền giáo hồ sơ về 316 nhóm sắc tộc và thổ ngữ theo Phật Giáo ở châu Á, từ nhóm người Nyenpa ở miền Trung Bhutan đến người Kui ở miền Bắc Campuchia, từ nhóm Buriats ở miền cực Đông nước Nga đến người Sinhalese ở Tích Lan.
Cuốn sách cho biết chi tiết từng nhóm, số lượng người trong nhóm, có bao nhiêu người theo Phật Giáo, có bao nhiêu người thực sự hiểu biết và thực hành đạo Phật, nói tiếng gì, sức mạnh của họ và cách vượt qua, các điểm yếu của họ và cách lợi dụng, tổng quan về lịch sử, văn hoá và những cách cải đạo tốt nhất.
Cuốn sách có đầy các hình màu đẹp về các dân tộc này, mà đa số ít người biết đến. Điều làm chúng ta rất buồn khi nghĩ đến các người hiền lành, vui cười và vô tội này đang ở trong tầm ngắm của các người truyền đạo xảo quyệt đang nhất quyết phá hoại niềm tin và văn hoá cổ truyền của họ. Tuy nhiên, cuốn sách của Hattaway cũng hấp dẫn vì cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua cái tâm tính kỳ quặc và gíáo lý không kém kỳ quái của các người truyền đạo Chúa. Trong lời tựa, Hattaway hỏi “Có làm Chúa thất vọng không khi ngày nay có hàng trăm triệu Phật tử đang đi vào địa ngục mà không được Phúc âm chứng nhận? Có làm Đấng Cứu Thế thất vọng không khi hàng triệu người đang thờ cúng các thần tượng chết cứng thay vì Đức Chúa Cha vẻ vang trên trời?”
Không có gì lạ khi thấy các người truyền đạo luôn luôn giận dữ và tự vệ, rất tự kỷ và đầy lo lắng. Hàng ngày họ phải sống với niềm tin đầy mâu thuẫn, Chúa của họ đầy tình thương nhưng cũng ném người vào lửa địa ngục bất tận, ngay cả những người chưa bao giờ nghe đến Chúa. Đây là một sự căng thẳng có thật. Giống như một người cứ bơm mãi không khí vào một trái banh bị xì hơi để làm nó tiếp tục căng, họ phải tiếp tục cho rằng đạo Phật chỉ là một sự sùng bái thần tượng trống rỗng và không có gíá trị trong khi họ biết rõ điều này không đúng với sự thật. Đây cũng là một căng thẳng có thật. Trong suốt cuốn sách, Hattaway đã lập lại những điều dối trá cũ mèm, những xuyên tạc và những sự thật nửa chừng mà các người truyền đạo đã dùng trong thế kỷ 19 và các người theo đạo Chúa chân chính đã gạt bỏ hơn trăm năm nay.
Hattaway cho rằng các Phật tử, cũng như các ngoại đạo khác, đang sống một cuộc đời trống rỗng và không có ý nghĩa, và họ đang mong chờ để được nghe Phúc âm của Chúa Giêsu. Chẳng ngạc nhiên gì khi các thống kê mà tác giả trình bày cho người đọc không luôn luôn chứng minh được điều này. Ông ta cho biết có vài nhóm Phật tử đã bị trải qua nhiều cố gắng cải đạo trong nhiều năm nhưng họ vẫn giữ đạo của họ. Thí dụ, 32 phần trăm dân Kyerung ở Nepal đã được nghe Phúc âm nhưng chỉ vài người “thấu hiểu” được thông điệp của nó. Hattaway nói rằng các người Mỹ theo Baptists đã làm việc trong vùng Tovyan ở Miến Điện qua nhiều thập kỷ, nhưng đa số người theo đạo là người (thiểu số) Karen. Họ nhận thấy người dân Tovyan hưởng ứng chậm đối với Phúc âm và tình trạng này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay.
Các người truyền đạo đã tận tụy làm việc và hy sinh nhiều ở Thái Lan trong vòng 140 năm qua nhưng số người theo đạo Chúa rất ít. Theo Hattaway, có chừng 2000 người truyền đạo ngoại quốc ở Chiangmai - nhiều hơn cả số người theo đạo Chúa ở thành phố này.
Thật yên tâm khi biết Thái Lan được các người truyền đạo mệnh danh là “mồ chôn” của họ. 21 phần trăm dân Lao Ga đã được truyền đạo nhưng đạo Chúa chưa đạt được kết quả gì. 42 phần trăm dân Lemo đã được nghe về Giêsu nhưng niềm tin vững chãi theo Phật giáo và nền văn hoá cô lập của họ đã ngăn chận việc chấp nhận Phúc âm. Dĩ nhiên nền văn hoá cô lập của Hattaway đã không cho ông ta nhận biết rằng các người Lemo này đã không theo đạo Chúa vì đạo Phật cho họ những món bổ dưỡng tinh thần và trí tuệ mà họ đang cần. Do đó ông ta phải giải thích một cách khác vì sao nhiều Phật tử vẫn còn trong thành phần mà ông gọi là “các người chống đối”. Theo ông ta, đó là vì những Phật tử này lo sợ (trang 217), biếng nhác trí thức (trang 149), tham lam và mù quáng (trang 172) và dĩ nhiên chống đối của ma quỷ (trang 190). Một nguyên nhân khác là mê lầm như trường hợp người Palaung ở miền Bắc Miến Điện đã hoàn toàn sai lầm khi tin rằng họ đã tìm được chân lý nơi đạo Phật (trang 217).
Dĩ nhiên Hattaway cũng đủ xảo quyệt để biết rằng sự bền vững và văn hoá tinh nguyên của các xã hội Phật giáo cổ truyền là những chướng ngại lớn cho công cuộc truyền đạo. Những nội chiến như ở Tích Lan và Campuchia là những món quà của Chúa dành cho các người truyền đạo. Hattaway gọi sự phá hoại và di đời của dân Loba ở Nepal do các cơn lũ to là một cơ hội mà Chúa ban (trang 168). Như đám ruồi nhặng bu quanh một con vật sắp chết, các người truyền đạo bám lấy các cộng đồng đang bị nguy khốn để kiếm cách cải đạo trong khi ngụy trang công việc của họ dưới hình thức cứu giúp và viện trợ nhân đạo.
Điều đáng tiếc là có nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính ở phương Tây đã không hề biết những công tác bí mật này, đã cho tiền World Vision và các hội tương tự dù các hội này dùng (công tác) cứu giúp như một kỹ thuật cải đạo. Trong khi nhiều Phật tử đã gạt bỏ lời các người truyền đạo, có những người khác lại nghe theo. 31 phần trăm dân Tamangs ở Nepal giờ đây đã theo đạo Chúa. Những người truyền đạo Phúc âm đầu tiên đến Mông Cổ vào năm 1990 và trong vài năm họ đã có hàng ngàn người cải đạo, phần chính là giới trẻ. Sự tăng trưởng kỳ lạ này hiện nay đã chậm lại nhưng số cơ quan truyền đạo đang hoạt động trong nước đã gia tăng rất nhiều và cho đến nay hầu như vẫn chưa có sách Phật Giáo bằng tiếng Mông Cổ.
Ở Trung Quốc hiện nay, Thiên Chúa Giáo gia tăng mau chóng đến độ không kịp xây các nhà thờ để chứa các người mới cải đạo. Các dân tộc hiền hoà ở miền núi Thái Lan và Lào đang trở thành con mồi, từng nhóm từng nhóm, cho các người truyền đạo. Các thành công này cũng như nhiều thành công khác đã không phải vì các người truyền đạo không có lương tâm và ngoan cố nhưng vì các Phật tử đã không quan tâm, chậm thấy nguy cơ và lại còn chậm hơn nữa để đối kháng lại một cách có hiệu quả.
Ở Thái Lan, hàng triệu đồng được chi tiêu cho những buổi lễ hoành tráng, những tượng Phật to lớn và vàng lá để che đắp các tháp nhưng hầu như không có ngân khoản gì cho văn hoá Phật Giáo, giảng dạy giáo lý và dịch vụ xã hội cho các sắc tộc miền núi. Một cơ hội mà Chúa ban cho các nhà truyền đạo là thái độ yếu đuối trong đa phần Tăng đoàn. Một trong những phần cuốn sách có nhiều hé lộ (về trí lực của các người truyền giáo và các tu sĩ Phật Giáo) và đáng lo nhất là đoạn Bryan Lurry kể chuyện ông ta đã từng ở bốn tháng tại một Thiền viện của người Shan ở miền Đông Bắc Miến Điện. Ông ta đã ở đấy để thăm dò cách cải đạo các tăng sĩ và đã rời Thiền viện với hy vọng tràn trề. Tôi lo sợ là sự lạc quan của ông ta không phải là hoàn toàn sai. Vị Trú trì nơi Lurry ở đã cho phép ông ta dạy tiếng Anh cho các tăng sĩ (dĩ nhiên là dùng Kinh Thánh làm tài liệu học tập), chiếu một cuốn phim về đời Giêsu và sau đó có những lớp giảng thường xuyên về Thánh Kinh cho các tăng sĩ. Các tăng sĩ ở Tây phương có thể cho đó là một thí dụ của lòng khoan dung của Phật giáo, tuy không đúng chỗ. Tôi nghi là do sự thiếu hiểu biết và thờ ơ đối với mọi sự việc không gây xáo trộn hay trái ngược với các cách hành xử cổ truyền thường thấy trong đa phần Tăng đoàn.
Một phần trong chiến thuật dùng để tìm hiểu suy tư của các tăng sĩ, Lurry đã hỏi “những người bạn” một số câu hỏi. Với câu hỏi “Giáo điều Phật giáo nào khó tuân theo nhất?”, vài tăng sĩ đã trả lời là không được ăn sau 12 giờ trưa, không được uống rượu và một tăng sĩ đã trả lời là khó đạt được Niết bàn. Với câu hỏi “Nếu có thể thay đổi một điều ngay chính bản thân, thì đó là điều gì?” Các câu trả lời gồm có mạnh hơn, cao hơn, thay hình dáng lỗ mũi và có da trắng hơn. Khi hỏi tại sao đi tu, không một tăng sĩ nào nói là vì thích Phật Pháp, ngồi thiền hay đời sống tu sĩ nói chung. Thường xảy ra trong thế giới Phật giáo, có thể họ đi tu vì đó là truyền thống buộc họ làm vậy. Khi Lurry hỏi các tăng sĩ có bao giờ muốn bỏ tu không thì họ cho biết muốn rời Thiền viện để làm lính trong quân đội giành độc lập cho người Shan … Họ không thấy một mâu thuẫn nào khi biết rằng đã là một tăng sĩ thì không được giết một con muỗi, huồng gì là một người khác. Lurry thú nhận là đã rất ngạc nhiên vì rất ít câu trả lời mà ông ta đã nhận được cho thấy sự hiểu biết thâm sâu về Phật Giáo hay một lòng mộ đạo chân thành.
Sau tám năm sống ở các tự viện tại Thái Lan, tôi buồn mà nói rằng các câu trả lời của các tăng sĩ kia đã không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Hiện nay, thường thường trong đời sống của một vị tăng sĩ Phật Giáo chỉ cần học đóng trò, chấp nhận không suy nghĩ các niềm tin truyền thống, những nghi lễ dài bất tận và làm tê liệt đầu óc, dự các buổi phát chẩn và ngủ những giấc dài. Rất may là có nhiều cộng đồng Phật giáo đã chống lại công tác của các nguời truyền đạo nhưng với trình độ giáo dục tôn giáo thấp và thiếu hướng dẫn từ một Tăng đoàn thụ động, thử hỏi họ sẽ còn có thể chống được bao lâu nữa? Phải làm một cái gì và phải làm gấp.
Một lời vu khống khác cũ mèm của các người truyền đạo và được lặp đi lặp lại trong suốt cuốn sách của Hattaway là các Phật tử sống triền miên trong sự sợ hãi ma quỷ (mê tín dị đoan). Lời buộc tội này hơi khôi hài vì các người truyền bá Thiên Chúa Giáo thường đổ tội hết cho Satan và bè lũ những gì mà họ không thích. Lurry nói về kinh nghiệm của chính mình, “Tôi phải thú nhận là các chùa làm tôi sợ hãi. Tôi thấy có nhiều vật làm tôi không muốn vào. Ở một vài chùa có những tượng trông dữ tợn của những con thú có nanh dài và móng nhọn gác cổng chùa. Gác đại điện của nhiều chùa là hai tượng rồng lớn với nhiều đầu ở hai bên cầu thang … Nếu các hình tượng này còn ở ngoài chùa, tôi sẽ còn thấy gì ở trong chùa nữa? Tôi cứ tưởng là các con vật này sẽ sống lại và cố hại tôi” (trang 234).
Tôi có thể hiểu được các người giản dị và thường mù chữ ở các bộ lạc miền núi hoang dã ở Miến Điện có thể sợ các con ma ác độc. Nhưng ông Lurry đã tốt nghiệp trường Đại học Bắc Texas (University of North Texas) mà lại sợ một ít xi-măng và thạch cao được sơn phết để trang trí các chùa Phật Giáo. Thật là quá dễ hù dọa các người truyền đạo Chúa!
Chín trang trong cuốn sách “Các Dân Tộc trong Thế Giới Phật Giáo” (Peoples of the Buddhist World) đã dành cho dân Sinhalese là những thổ dân của Tích Lan và, từ lâu, vốn đã là một mục tiêu của các người truyền đạo. Tuy có gần 500 năm gần gũi với đạo Chúa, nhưng chỉ có 4 phần trăm theo đạo Chúa mặc dù có nhiều giai đoạn mà tôn giáo của họ đã gặp nhiều bất lợi và bị ngược đãi. Điều này làm các người truyền đạo bối rối và tức giận vì họ chỉ đạt được thành công nhỏ bé trên hòn đảo trung thành với đạo Phật này.
Từ cuối thập niên 1950, Gíáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã ở Tích Lan đã ngầm chấp nhận địa vị thiểu số của mình và đa phần đã có thái độ sống chung với Phật Giáo. Giáo hội vẫn tiếp tục các nỗ lực cải đạo nhưng ít sôi nổi và lễ phép hơn. Nhưng kể từ thập niên 1990, nhiều tổ chức truyền đạo Tin lành đã tràn ngập Tích Lan và họ có thái độ “không xin, không cho”. Cho đến nay, các người đã vào Tin lành đa phần lại là tín đồ Giáo hội La Mã, điều nầy làm cho Giáo hội kinh ngạc, nhưng mục tiêu chính vẫn là các Phật tử. Các tăng sĩ Phật giáo đang kêu gọi chính quyền ban hành luật cấm cải đạo. Nhưng đây có phải là giải pháp tốt nhất không?
Ta có thể hiểu được việc dân Sinhalese không thích tôn giáo của họ bị gọi là đạo thờ cúng quỷ Satan, nhất là từ miệng của các người ngoại quốc, kể cả các nhà truyển đạo trong nước. Cách đây vài năm, một cao tăng người Sinhalese rất được kính trọng qua đời và quần chúng Phật tử đã thật sự tiếc thương vị sư này. Chính trong thời gian tang lễ của vị sư này, người lãnh đạo một nhà thờ ở ngoại ô Colombo đã đốt pháo, một cách thường dùng để ăn mừng ở Tích Lan. Lẽ dĩ nhiên, các Phật tử ở quanh nhà thờ này đã rất bực mình, tuy bạo động không xảy ra nhưng có nhiều lời giận dữ đã được trao đổi. Tôi vô tình chứng kiến cảnh các người dân địa phương đối diện với người lãnh đạo nhà thờ này. Ông ta khẳng định là việc đốt pháo không liên quan đến tang lễ của vị sư nhưng ông đã không có một lý do thuyết phục vì sao ông lại đốt pháo. Trong suốt cuộc gặp gỡ với các láng giềng, ông đã tỏ ra trâng tráo, không xin lỗi vì các hành động của mình, và xem thường các nổi đau của quần chúng. Tôi chỉ biết nói rằng ông ta cho tôi cảm tưởng rõ rệt là ông ta muốn bị cư xử thô bạo hay bị đánh đập để ông ta có quyền có một danh vị mà tất cả các người truyền đạo đều mong muốn – đó là “thánh tử đạo” đã hy sinh cho Chúa Trời.
Cuốn sách của Hattaway nêu rõ các vụ xô xát bạo động chống lại người theo đạo Chúa ở Tích Lan và các nơi khác và các viêc này đã xảy ra thuờng xuyên hơn. Tuy nhiên, tác gíả đã không nói rõ là chỉ có những người truyền đạo Tin lành, chứ không phải Thiên Chúa Giáo La Mã hay các tín đồ đạo Chúa chân chính, đã gây nên các phản ứng tiêu cực như vậy. Và lẽ dĩ nhiên ông ta cũng không nói lý do vì sao đôi lúc quần chúng nổi giận với các người truyền giáo Phúc âm. Thật sự, nguyên nhân các vụ bạo động là vì tính huênh hoang bất lịch sự của các người này và họ hoàn toàn không có ý thức gì về các niềm tin tôn giáo của người khác. Đây không phải biện hộ cho bạo động mà chỉ cố gắng giải thích vì sao bạo động xảy ra mà thôi.
Thật sự cũng có vài người truyền giáo quá khích đã cố ý gây ra những vụ chạm trán. Tôi có đọc hai bài luận văn về cách truyền giáo từ Tích Lan - một bài nhấn mạnh rằng các thôn làng phải trở thành “bãi chiến trường cho linh hồn” và bài kia nói rằng các tín đồ đạo Chúa “phải đối diện với những người không được cứu rỗi, nếu cần dùng cả vũ lực để bắt họ phải quyết định”. Không những chỉ có người Phật tử mới bị xúc phạm bởi các hành vi quá trớn của các người truyền giáo. Một người tín đồ Tin Lành thuộc phái Tái sinh đạo Chúa, gốc Trung Hoa-Thái, đã có lần cho tôi biết là Giáo hoàng là “người bán dâm cho kẻ Chống Chúa (prostitute of the Anti-Christ)” và chỉ cho tôi một đoạn trong Thánh Kinh để chứng minh điều này. Tôi chỉ cười cái lối giải thích còn non nớt của ông ta. Nhưng một tín đồ đạo Công giáo La-Mã thuần thành sẽ nghĩ gì khi được nghe chuyện như vậy?
Đoạn về Tích Lan trong sách của Hattaway do Tilak Rupasinghe và Vijaya Karunaratna viết, họ vốn là hai nhà truyền giáo nỗi tiếng. Họ rất vui nêu rõ lên các tai họa của Tích Lan - nội chiến, tỷ lệ tự tử cao, tham nhũng, nổi loạn – và dĩ nhiên cho rằng đây là thêm những bằng chứng Phật Giáo đã sai lầm. Rồi họ bạo dạn cho rằng “Ở Chúa mới chữa lành những vết thương do bất công, đàn áp và căm thù sắc tộc …Ở Chúa mới có hy vọng cứu nước, lãnh thổ, ngôn ngữ, văn hoá và dân tộc”. Đây là một hứa hẹn hấp dẫn mà vài người có thể muốn nghe. Nhưng dĩ nhiên đây là lời hứa cũ mèm rỗng tuếch mà các người truyền giáo luôn luôn hứa ở những nơi mà họ đang cố gắng cải đạo: “Đất nước của các người lộn xộn quá! Các thần linh của các người đã thất bại. Hãy chấp nhận Giêsu và mọi việc sẽ tốt đẹp”.
Nhưng có thật đạo Chúa có thể giải quyết các vấn đề xã hội tốt hơn không? Bằng chứng cho việc này rất mong manh. Đạo Chúa đã thất bại hoàn toàn trong việc đem lại hoà bình cho Bắc Ái Nhĩ Lan. Trên thực tế, đạo Chúa là nguyên nhân chính của vấn đề. Truyền thống đạo Công giáo La-mã và Tin lành lâu đời ở nước Đức đã không ngăn được chủ nghĩa Quốc xã bám trụ ở đó. Giáo hội Cải cách Hòa Lan (Dutch Reformed Church) ở Nam Phi đã ủng hộ mạnh mẽ chính sách kỳ thị chủng tộc với tất cả các vụ áp bức và tàn ác. Đạo Chúa Phúc Âm (Evangelical Christianity) rất thịnh hành ở miền Nam nước Mỹ - vùng này được gọi là “Vành đai Thánh Kinh” – và việc này đã không ngăn được nó trở thành vùng nghèo nhất và kỳ thị da màu nhất nước Mỹ. Và sự phân biệt chủng tộc ở miền Nam nước Mỹ biểu lộ rõ ràng nhất vào mỗi buổi sáng Chủ Nhật, khi các người da trắng và da đen vẫn còn đi nhà thờ riêng biệt; “Ngợi khen Chúa nhưng thờ phụng Ngài ở trong nhà thờ riêng của các người!”
Cuốn sách của Hattaway ít nhất cũng là một cuộc đánh thức cho tất cả Phật tử chúng ta. Nếu chúng ta không cải tổ Tăng đoàn, không tổ chức tốt hơn và không cố gắng hơn để hiểu biết và áp dụng tôn giáo của chúng ta, thì Ánh Sáng của Á Châu sẽ bị dập tắt.
Chuyển ngữ: Nguyên Tánh
9-7-2008